Đã có nhiều đại dịch cúm gây kinh hoàng cho nhân loại, trong đó khủng khiếp nhất là đại dịch cúm năm 1918 đã cướp đi sinh mạng của khoảng 50 triệu người.
Các nhà khoa học cho rằng, căn bệnh lây lan từ chim chóc sang người ở vùng Trung Tây nước Mỹ trước khi bùng phát dịch. Khi đó, toàn thế giới chưa chuẩn bị gì để đối phó với loại virut mới này.
Đại dịch khiến gần 100 triệu người tử vong
Triệu chứng do virut cúm gây ra được Hippocrates mô tả khoảng 2400 năm trước. Từ đó, virut cúm gây nhiều trận đại dịch.
Trận dịch cúm đầu tiên ghi chép trong lịch sử là năm 1580, bắt đầu từ châu Á lan sang châu Phi và đến châu Âu. Tại Roma, hơn 8.000 người chết và nhiều thành phố của Tây Ban Nha gần như chết sạch. Trong thế kỷ 17 – 18, nhiều trận dịch rải rác khắp nơi, đặc biệt là khoảng năm 1830-1833, dịch cúm lan tràn, làm bệnh nặng đến 1/4 số người bị lây.
Năm 1918, khi Thế chiến lần thứ nhất dường như đã kết thúc, nhưng con người lại phải đối mặt với một cuộc chiến mới, đó là một căn bệnh mới đã xuất hiện. Người ta gọi đó là cúm Tây Ban Nha hay đại dịch cúm hay cúm năm 1918. Trong 2 năm 1918 – 1919, cúm làm chết khoảng 40-50 triệu người, theo ước tính, con số này có thể lên đến khoảng 50-100 triệu. Trận cúm tàn bạo này được giới nghiên cứu y học xem ngang hàng với trận dịch hạch làm chết gần 2/3 dân châu Âu giữa thế kỷ 14. Sở dĩ có nhiều tử vong là vì dịch cúm lần này rất mạnh. Khoảng 50% những người có tiếp xúc với người bị cúm bị lây bệnh và khi bị lây có triệu chứng rất trầm trọng. Vì triệu chứng trầm trọng khác cúm thường nên lúc bấy giờ, người ta đoán bệnh sai lạc như bệnh sốt xuất huyết Dengue, kiết lỵ hay thương hàn tuy phần lớn tử vong là do các loại vi trùng bội nhiễm lúc bệnh nhân đang bị cúm, sức đề kháng bị suy giảm gây viêm phổi, một số viêm phổi do chính virut cúm gây tổn thương phổi rất trầm trọng. Trận cúm Tây Ban Nha quả thực là một bệnh dịch toàn cầu, lan tràn lên tận Bắc Cực và cả những vùng đảo xa xôi ở Thái Bình Dương. Khoảng 2 – 20% người mắc bệnh bị chết. Người ta ước lượng đợt cúm 1918-1919 giết chết khoảng 2,5 – 5% dân số toàn thế giới.
Những trận dịch cúm sau đó không đến nỗi quá tàn khốc gồm dịch cúm châu Á năm 1957 (loại A/H2N2 khiến khoảng 1 triệu người chết) và dịch cúm Hong Kong năm 1968-1969 (loại A/H3N2, khoảng gần 1 triệu người chết). Sau trận dịch cúm tại Hong Kong, những trận dịch khác như tại New Jersey (1976), Nga (1977), Hong Kong (1997) đều gây tử vong ít hơn do con người ngày càng có hiểu biết về bệnh cúm nhiều hơn, có ý thức phòng bệnh và có khả năng miễn nhiễm tốt hơn.
Cách ngừa bệnh cúm
Bệnh cúm do virut gây nên và không có thuốc điều trị đặc hiệu, vì vậy, biện pháp đơn giản tốt nhất để phòng ngừa cúm là tiêm phòng cúm vào mỗi mùa thu. Tháng 10 và tháng 11 là thời gian tốt nhất để tiêm phòng, tuy nhiên vẫn có thể tiêm phòng vào tháng 12 và những tháng sau đó. Mùa cảm cúm có thể khởi đầu ngay từ tháng 10 và kéo dài đến tận tháng 5 năm sau.
Có 2 loại thuốc ngừa cảm cúm:
Thuốc tiêm phòng cúm là một loại thuốc vô hại (chứa virut cúm đã chết) thường tiêm ở cánh tay. Tiêm phòng cúm được chấp thuận cho sử dụng ở trẻ trên 6 tháng tuổi, người khỏe mạnh và người có bệnh mạn tính.
Thuốc xịt mũi phòng cúm là một loại thuốc dự phòng có chứa virut cúm bất hoạt để không gây cảm cúm, được gọi là LAIV (Live Attenuated Influenza vaccin). LAIV được chấp thuận cho sử dụng ở những người khỏe mạnh từ 5 – 49 tuổi và không có thai.
Trong mỗi thuốc phòng cúm đều có 3 loại virut cúm: một siêu vi A (H3N2), một siêu vi A (H1N1) và một siêu vi B. Những loại siêu vi có trong thuốc ngừa sẽ thay đổi hàng năm dựa trên cuộc nghiên cứu quốc tế và dự đoán của các nhà khoa học về chủng loại siêu vi nào sẽ lây truyền trong năm dự báo.
Khoảng 2 tuần lễ sau khi tiêm phòng ngừa, cơ thể sẽ sinh thêm kháng thể để đề kháng việc lây nhiễm virut cúm.
Theo kinh nghiệm dân gian, một số phương pháp được sử dụng để phòng ngừa cúm hoặc tránh lây nhiễm cúm như ăn tỏi sống, đun sôi giấm thanh cho bay hơi khắp nhà…
Ai nên tiêm phòng?
Nói chung, bất cứ người nào muốn giảm thiểu nguy cơ bị cảm cúm đều có thể đi tiêm phòng. Tuy nhiên, những người có yếu tố sau đây nên đi tiêm phòng hàng năm: Người có nguy cơ cao bị biến chứng nghiêm trọng của cảm cúm; Những người từ 65 tuổi trở lên; Những người cư trú tại các viện dưỡng lão và cơ sở chăm sóc dài hạn khác, những người bị bệnh tật triền miên; Người lớn và trẻ em từ 6 tháng trở lên bị bệnh tim hoặc phổi mạn tính, kể cả bệnh suyễn; Người lớn và trẻ em từ 6 tháng trở lên cần chữa trị y tế thường xuyên hoặc nhập viện trong năm trước do bị bệnh chuyển hóa, bệnh thận mạn tính hoặc suy giảm hệ miễn dịch.